Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Sơ kết 6 năm những chế độ cử tuyển: Dễ đầu vào ắt khó đầu ra.

Vì vậy, trước khi có kế hoạch cử tuyển, ngoài chỉ tiêu được Bộ giao, địa phương cần có mối kết liên với các trường để chúng ta có thảo luận hai chiều để kết quả đào tạo được tốt”

Sơ kết 6 năm chế độ cử tuyển: Dễ đầu vào ắt khó đầu ra

Còn tại ĐH Kinh Tế TPHCM, Ths Nguyễn Văn Đương, Phó Trưởng phòng đào tạo Trường ĐH Kinh Tế TPHCM chứng dẫn: năm 2010, tỷ lệ tốt nghiệp sinh viên hệ cử tuyển của trường đạt 75%, năm 2011 tỷ lệ giảm còn 45%, đến năm 2012 chỉ còn 28% và trong năm 2013 chỉ có 2/44 sinh viên tốt nghiệp đúng hạn.

Chưa dừng lại ở đó, công tác phối hợp giữa các trường với các địa phương cử người đi học trong việc theo dõi, quản lý, thực hành chế độ chính sách, thông báo kết quả học tập, thời gian tốt nghiệp…. Bên cạnh đó, một số tỉnh đã xét tuyển tỷ lệ học trò người Kinh cao hơn quy định như tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông…Một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long vì không có người dân tộc đã cử hoàn toàn người Kinh đi học; trái lại nhiều dân tộc thiểu số trong nhiều năm không có học sinh cử tuyển.

Nhiều địa phương hầu như chỉ gửi danh sách đi học mà không có sự quan tâm đến kết quả học tập của sinh viên khiến cho việc đào tạo, dùng nhân lực gặp khó khăn, như quan điểm của TS Nguyễn Văn Trào, Phó Hiệu trưởng ĐH Sư Phạm Hà Nội: “Chúng tôi không biết sau khi ra trường, các em có làm được đúng nghề hay không hoặc các em được địa phương cử tuyển đi học có làm được đúng ngành nghề mà mình được học hay không? Hay các em chỉ cần bằng đại học để sau đó tự đi xin việc, làm việc này việc khác.

Qua một số năm chúng tôi thấy không đạt được kết quả bao nhiêu. Vẫn chưa có sự kết hợp nhịp nhàng. Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga:   "Cần có chính sách tương đối đồng bộ hơn, để làm sao sinh viên cử tuyển có những ưu tiên nhất quyết khi học, ra trường có việc làm" (ảnh: QĐND) Tại hội nghị, những bất cập trong chính sách cử tuyển học trò dân tộc bây giờ được đặt ra là: Đầu vào hệ cử tuyển chưa đúng đối tượng, cơ chế phối hợp giữa các trường và địa phương còn lỏng lẻo, sinh viên hệ cử tuyển tốt nghiệp trở về địa phương không được bố trí việc làm thỏa đáng….

Đáng nói, các tỉnh cử đi học không đồng đều ở các lĩnh vực mà tập kết vào các ngành như: y tế chiếm gần 26%, sư phạm 23% và kinh tế hơn 16%. Tuổi 2007 – 2013, tổng số học sinh được cử tuyển vào các trường hơn 12. Để việc đào tạo hệ cử tuyển đạt hiệu quả, các địa phương cần chủ động xây dựng nhu cầu đào tạo nguồn nhân công dân tộc thiểu số theo chế độ cử tuyển với những kế hoạch chiến lược lâu dài, đồng thời thẩm tra, thống kê các ngành nghề đào tạo, các dân tộc, các địa bàn cần ưu tiên cử tuyển theo tiêu chuẩn quy định.

Theo đại diện nhiều trường, sinh viên hệ cử tuyển sau thời gian 1 niên học dự bị sẽ được học chính thức và học chung với sinh viên hệ chính quy. Dù rằng được đào tạo theo địa chỉ dùng rất rõ ràng, thế nhưng vấn đề việc làm của sinh viên khi trở về địa phương gặp rất nhiều chướng ngại, chỉ khoảng hơn 60% sinh viên được bố trí việc làm.

Thạc sĩ Lê Ngọc Tứ, Phó trưởng phòng đào tạo Trường ĐH Sư Phạm TPHCM kiến nghị: “Về đầu vào, chúng tôi mong muốn các địa phương, các Sở căn cứ vào học lực cũng như tình hình hàng ngũ cha nội thực tiễn ở các địa phương đề xuất cử danh sách sao cho đúng người, đúng đối tượng, để sau này các em được đào tạo có trình độ tương đối đáp ứng nhu cầu của các địa phương.

Thành ra, tôi nghĩ Bộ cần giải pháp nào đó để nâng chất đầu vào, hoặc cho học ở trường hiệp để tránh hoang toàng nguồn cử tuyển này”.

Thế nhưng, phần lớn học lực của các em chỉ ở mức làng nhàng, thậm chí có em học lực kém không đáp ứng được chương trình học.

Mỗi môn học chúng tôi đều có nhóm vừa riêng vừa chung, nghĩa là nhóm sinh viên cử tuyển chúng tôi gom về một lớp kèm với nhóm sinh viên dự bị dân tộc để các giảng viên bổ túc thêm.

Theo quy định, UBND cấp tỉnh tổ chức tiếp thu và cắt cử công tác cho người được cử đi học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp, tuy nhiên có những trường hợp trở về địa phương không được bố trí công việc với nhiều lý do, trong đó phổ biến là không có chỉ tiêu biên chế. Chúng ta cũng không lãng phí việc sử dụng, cắt cử các em sau khi ra trường”. 800 học sinh, đạt 88% chỉ tiêu.

Đặc biệt là cơ chế giải pháp quản lý người học sau tốt nghiệp trở về địa phương được bố trí việc làm.

Ths Đương kiến nghị: “mặc dầu chúng tôi có rất nhiều giải pháp để giúp các em. Tại ĐH Sư Phạm Hà Nội, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp của khóa 2007 sinh viên hệ cử tuyển đạt khoảng 90%, khóa 2008 giảm còn 80%. Trong đó, có đến 83% vào đại học, trình độ cao đẳng ít, chỉ chiếm khoảng 16%. Hệ lụy của đầu vào yếu đã dẫn đến tình trạng sinh viên hệ cử tuyển rất khó nhọc để ra trường.

Theo Thứ trưởng Sơn Phước Hoan, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, việc giải quyết việc làm cho sinh viên cử tuyển sau khi ra trường thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc.

Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga cho rằng: “Để nâng cao tỷ lệ sinh viên cử tuyển có thể tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp, chúng ta cần có chính sách tương đối đồng bộ hơn, để làm sao họ có những ưu tiên khăng khăng khi học, ra trường có việc làm”. Có như vậy, Nghị định số 134 của Chính phủ về chế độ cử tuyển học trò dân tộc mới đích thực hiệu quả/.