"Biết rồi vẫn khó giúp" là thực trạng nhiều địa phương đang vướng phải. Bà Bùi Thị Hiền, Phó chủ tịch UBND thị trấn Đăk Hà (Đăk Hà, Kon Tum) đơn cử một vụ việc: “Khi phát hiện em Lý Trần M.T., SN 2001 (tổ dân phố 12) mắc bệnh tự kỷ, tư vấn viên đồ mưu hoạch kết nối đến nhiều cơ quan để can thiệp, nhưng không can thiệp và hỗ trợ được vì thiếu kiến thức chuyên sâu và chưa có quy định thực hiện”. Theo bà Hiền, ngay cả trong trường hợp can thiệp được, tính bền vững cũng không cao, vì nhiều trường hợp cần thời kì “đeo bám” đến bốn-năm tháng. Tiêu biểu là trường hợp em Nguyễn Thị T. (Tổ dân phố 6). Mẹ mất, cha đi làm ăn xa, T. Sống với bà nội già yếu. Thiếu người quản lý, T. Tập tụ theo bạn xấu bỏ nhà đi. Sau gần năm tháng thu thập nhiều nguồn thông tin từ môi trường xung quanh, tư vấn viên phối hợp với công an thị trấn kiêng và phát hiện em đang làm tại TP. Kon Tum và bị bóc lột sức lao động. Theo bà Hiền, để thực hành được việc này, đòi hỏi người tham mưu viên phải có tính hy sinh rất lớn, vì chế độ tương trợ hàng tháng rất thấp. Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. Phát biểu tại Hội thảo, bà Lê Thu Hà, Trưởng phòng Bảo vệ con trẻ (Cục BVCS trẻ thơ), cho rằng, có nhiều nguyên do dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc viện trợ, hỗ trợ trẻ mỏ, nhưng căn do cơ bản vẫn là do nhận thức, nghĩa vụ, năng lực BVCS con trẻ truyen hinh ky thuat so mat dat của các cấp chính quyền còn thiếu hụt. “Hệ thống cán bộ làm công tác BVCS trẻ ở cơ sở còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực”, bà Hà nhấn mạnh: “Không chỉ chưa quan tâm bố trí đủ số cán bộ tối thiểu, tại nhiều địa phương công tác đào tạo, tập huấn và kiện toàn cán bộ BVCS trẻ cũng đang là thách thức lớn”. Tính đến tháng 12/2012, cả nước có 411 cán bộ làm thuê tác BVCS trẻ cấp tỉnh. Ở tuyến dưới, con số này có lớn hơn, nhưng phần đông là người kiêm nhiệm, như: 709/ 892 đứa ở cấp huyện, và 10.486/ 11.241 người ở cấp xã. Theo bà Hà, bộ máy quản lý thiếu về số lượng, yếu về năng lực thì chỉ mỗi việc theo dõi, quản lý đối tượng đã là khó. Khó khăn cũng đến từ tình trạng thiếu… kinh phí. Không chỉ là việc ngân sách Trung ương bố trí thực hành Chương trình nhà nước BVCS trẻ con chưa đáp ứng yêu cầu để thực hành các mục tiêu đề ra (năm 2011-2012 hỗ trợ 69.650 triệu/180 tỷ đồng nhu cầu) mà tại các tỉnh, thành trong cả nước, ngân sách địa phương bố trí thực hành cho chương trình này cũng chỉ đạt khoảng 40% tổng ngân sách được duyệt trong Chương trình BVCS trẻ thơ thời đoạn 2011-2015 lắp truyền hình ở Hà Nội của các địa phương. Theo Chương trình Quốc gia bảo vệ trẻ nít tuổi 2011-2015 được Thủ tướng Chính phủ thông qua, đến 2015 giảm tỷ lệ con trẻ có cảnh ngộ đặc biệt xuống dưới 5,5%, tăng tỷ lệ trẻ có tình cảnh đặc biệt được chăm sóc, phục hồi và hòa nhập cộng đồng lên 80% và có ít nhất 70% trẻ được phát hiện có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt được can thiệp kịp thời. Các đại biểu thống nhất cho rằng, cần có cú hích toàn diện và quyết liệt mới có thể tháo gỡ khó khăn, đạt được đích đề ra. Theo chuyên viên Claire O’ Kane của tổ chức Plan tại Việt Nam, công tác BVCS trẻ ở Việt Nam không chỉ gói gọn trong hành động ngăn chặn từ xa các nguy cơ “bên ngoài”, như: nạn đô thị hóa và di cư từ nông thôn lên tỉnh thành đang có chiều hướng gia tăng… bằng các điều chỉnh về quy định, chính sách pháp luật, hay gia tăng kinh phí cho bộ máy quản lý quốc gia, mà còn phải được để ý ngay từ cộng đồng, từ trong mỗi gia đình. “Văn hóa truyền thống không khuyến khích trẻ con Việt Nam tham gia thiết thực vào các cuộc thảo luận với người lớn những vấn đề liên tưởng đến trẻ nít. Bởi thế, cần có sự đổi thay thái độ của cộng đồng để giảm thiểu việc đối không công bằng với trẻ”. Ngoại giả, theo bà Claire, chính xu hướng lơi là trông nom con cái của các bậc bác mẹ do bận rộn công việc, cũng được xem là một hình thức khác của xâm hại trẻ thơ. “Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, việc lãng của ba má đã góp phần vào việc tăng tỷ lệ thương tích ở trẻ thơ”. Bà Claire O' Kane nhấn mạnh. Tùng Hương |