Lãi suất kỳ ngắn hạn đã thực âm Tại các “ông lớn” như Vietcombank, Agribank, lãi suất cho kỳ ngắn hạn 1 tháng đã giảm xuống chỉ còn 5%/năm. Hiện, lãi suất huy động của nhóm NHTMNN phổ thông với không kỳ hạn từ 1 - 1,2%/năm, kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng 5 - 6,8%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng khoảng 7%/năm, kỳ hạn trên 12 tháng khoảng 7,5 - 8%/năm. Đối với nhóm NHTMCP, lãi suất phổ quát không kỳ hạn từ 1,2%/năm; kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng 6,5 - 7%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng khoảng 7 - 8%/năm, kỳ hạn trên 12 tháng khoảng 8,5 - 9%/năm. Với mức trần lãi suất huy động là 7%/năm, và lạm phát xoay quanh mức khoảng 6% thời gian gần đây, theo các chuyên gia đến từ công ty chứng khoán TP HCM (HSC), như vậy, lãi suất huy động tại các NH quốc doanh không chỉ thấp hơn nhiều so với trần lãi suất huy động, mà còn thấp hơn lãi suất trái phiếu và tốc độ tăng CPI theo năm. Trong khi đó, Chính phủ mong muốn giảm lãi suất cho vay, và coi việc giảm lãi suất huy động là biện pháp hữu hiệu nhất để đạt được điều này; theo đó lãi suất huy động thực đối với kỳ hạn ngắn đã âm.
Còn theo chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực thì giảm lãi suất cũng là một cách NH cắt giảm các phí đầu vào, để cân đối bài toán kinh doanh, trong khi vốn cho vay ra không được. Nếu chỉ nhìn vào con số 5% hay 6%/năm thì đúng là lãi suất đã thấp hơn kỳ vọng lạm phát. Tuy nhiên, hiện lãi suất các kỳ hạn dài vẫn ở mức cao, khoảng 8%, thậm chí hơn con số này. Mức lãi suất này vẫn bảo đảm thực dương so với kỳ vọng lạm phát.TS Lực cho rằng năm 2013, theo dự đoán, chỉ số giá tiêu dùng sẽ ở mức khoảng 7%. Song, điều đáng nói là dù lãi suất giảm, nhưng thực tế, dòng vốn chảy vào NH vẫn tiếp gia tăng. Chuyên gia nhà băng, TS Nguyễn Trí Hiếu phân tích: “Không phải lúc nào NH cũng trả lãi suất thực dương, vì ngay cả bên Mỹ, cũng có những lúc, họ cũng trả lãi suất thực âm. Song, việc thực âm hay dương phụ thuộc vào các kênh đầu tư khác cùng thời điểm trên thị trường, cụ thể ở đây có thể kể đến là vàng, chứng khoán, bất động sản và ngoại hối. Nếu các kênh đầu tư này rủi ro cao và khả năng sinh lời thấp, thì ngay cả khi lãi suất NH thực âm, người gửi tiền cũng cũng còn có lãi hơn là đầu tư kênh khác, song song chừng độ an toàn đồng tiền người dân gửi tại NH trong lúc này được xem là an toàn nhất. Tuy nhiên, để đầu tư một cách khôn ngoan, thì với một số tiền bỏ ra để đầu tư lớn lao, người dân hay nhà đầu tư nên phẩn bổ tiền đầu tư vào nhiều mảng khác nhau, chả hạn 60% vào tiền gửi NH, 20% vào bất động sản (nếu có những kênh đầu tư hiệp vào lĩnh vực này), 10% tiền gửi ngoại tệ (với điều kiện sở hữu ngoại tệ hợp pháp), và 10% vào vàng (với mục đích tích góp tài sản chứ không phải kinh dinh)”. Thế chấp tài sản khi vay vốn vẫn làm “đau đầu” doanh nghiệp Cùng với việc giảm lãi suất đầu vào, các NH cũng hạ lãi suất đầu ra. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), giờ, đối với nhóm NHTM Nhà nước: lãi suất cho vay phổ quát đối với lĩnh vực ưu tiên ở mức 7-9%/năm; cho vay lĩnh vực sinh sản, kinh doanh khác khoảng 9-10,5%/năm đối với ngắn hạn; trung và dài hạn khoảng 11,5-12,8%/năm; trong đó, một số DN có tình hình tài chính lành mạnh, sáng tỏ, phương án, dự án sinh sản kinh dinh hiệu quả, đã được các NHTM cho vay với mức lãi suất chỉ 6,5-7%/năm. Đối với nhóm NHTMCP: lãi suất cho vay phổ thông đối với lĩnh vực ưu tiên ở mức 8-9%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phổ quát ở mức 9,5-11,5%/năm đối với ngắn hạn; trung và dài hạn khoảng 12-13%/năm. Lãi suất cho vay hạ, đó là tín hiệu vui cho nền kinh tế nói chung và các DN thiếu vốn nói riêng. Tuy nhiên, lãi suất hạ là một chuyện, còn tiếp cận được vốn hay không lại là chuyện khác. Thưa vĩ mô 6 tháng mới ban bố của Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS) chỉ rõ: cho dù lãi suất đã hạ rất thấp, thanh khoản dồi dào, nhưng dòng chảy tín dụng đến DN cũng rất khó khăn, do các NH đang phải giải quyết nợ xấu. “Lãi suất hiện đã ở mức rất thấp, trong khi lạm phát lại có tín hiệu tăng trở lại. Mặt khác, lãi suất cho vay hiện đã rất thấp nhưng DN vẫn không mặn mà vì sức cầu còn yếu. NHNN hiện chỉ ứng dụng trần lãi suất cho vay với các lĩnh vực ưu tiên như cho vay nông nghiệp, nông thôn, DN xuất du nhập... Còn các lĩnh vực khác, lãi suất cho vay vẫn vận hành theo cơ chế thị trường, và niêm yết biểu lãi suất cho vay thế nào tùy thuộc vào chính sách của từng NH”, TS Cấn Văn Lực phân tích. Thực trạng hoạt động bết bát và lợi nhuận sút giảm, thua lỗ của khu vực DN và ngành NH, càng cho thấy vai trò của mỗi bên trong mối quan hệ cộng sinh này. Theo số liệu thống kê của ngành Thuế, tính đến ngày 30/6, số DN ngừng hoạt động sản xuất kinh dinh trên toàn quốc là 24.931 DN, trong đó có 202 DNNN, 269 DN đầu tư nước ngoài, 24.460 DN ngoài quốc doanh. Nhiều địa phương thực trạng rất đáng lo ngại, khi hoạt động sinh sản kinh doanh của các DN có mô tả giảm sâu hơn, hàng tồn kho lớn, sức tiêu thụ chậm, khả năng tiếp thu vốn kém, thị trường bất động sản đóng băng... Dẫn đến hệ quả là nhiều DN hoạt động cầm chừng, thậm chí ngừng hoạt động, giải tán, phá sản. Một số DN phản chiếu NH vẫn “chắc tay” với DN quá, nhất là trong vấn đề thủ tục thế chấp và tín chấp tài sản đảm bảo, NH vẫn quá chặt đẹp và nhiều thủ tục, dù DN đã là bạn hàng lâu năm, lại có uy tín tốt, được bạn hàng, cũng như nhiều DN khác xác nhận. Về vấn đề này, TS Cao Sỹ Kiêm đề xuất: trong tình hình điều kiện thế chấp tài sản bảo đảm nợ khó khăn, giá trị tài sản sút giảm nghiêm trọng như hiện, NH và DN phải có áp dụng linh hoạt, tìm cách giải quyết mới thông qua hoạt động bảo lãnh, để không bỏ quên các DN có phương án kinh doanh tốt, song đang gặp khó khăn trợ thời về tài chính.
|